Chiến dịch Điện Biên Phủ - “mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử”
Một đất nước nhỏ nhưng làm nên chiến thắng vĩ đại "lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu"
Trong bài "Nhân ngày kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ" (ký bút danh Chiến Sĩ) đăng trên Báo Nhân Dân (năm 1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn... Với tinh thần quyết chiến quyết thắng của Điện Biên Phủ, từ nay về sau nhân dân miền Nam chắc sẽ thắng lợi hơn nữa. Muốn tránh một thất bại như ở Điện Biên Phủ và muốn khỏi mất thể diện, thì đế quốc Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược, rút ngay quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy vấn đề nội bộ của mình".
Chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu", luôn mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, chứng minh rằng dù một đất nước nhỏ nhưng với ý chí quật cường đã đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: Các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Chân lý đó đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố: đó là đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng; tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh; bắt nguồn từ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc; sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của mỗi con dân đất Việt.
Nhân kỷ niệm 68 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2022), chúng ta cùng ôn lại những tháng ngày lịch sử hào hùng của quân và dân để thêm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh; Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng!
55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng rừng núi Tây Bắc. Năm 1953 - 1954, Pháp tập trung tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ một lực lượng quân sự lớn với 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và một phi đội không quân thường trực 14 chiếc máy bay. Số quân lính địch là 16.200 tên, chúng bố trí 49 cứ điểm thành 8 cụm, mỗi cụm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. 8 cụm cứ điểm chia làm 3 phân khu, phân khu trung tâm gồm 2/3 lực lượng ở ngay giữa Mường Thanh. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với hàng trăm lượt chiếc mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100 đến 150 tên địch, đảm bảo nguồn tiếp viện cho quân Pháp trong quá trình tác chiến.
Sau khi phân tích tình hình các chiến trường, Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, một trận "quyết chiến chiến lược". Bộ Chính trị nhận định, tuy Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, song lại bị cô lập và rất xa hậu phương của địch, mọi tiếp tế vận chuyển đều dựa vào đường hàng không. Đồng thời Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Bộ chỉ huy và Đảng ủy mặt trận do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp lãnh đạo. Chính Phủ ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Quyết định tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ đã trở thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Phương châm tác chiến ban đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ là "đánh nhanh, thắng nhanh" sau được đổi thành "đánh chắc, chắc thắng" do đánh giá lại tính chất phòng ngự và so sánh lực lượng. Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 13/3 đến 7/5/1954, chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 từ ngày 13 đến 17/3/1954: quân ta đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Pi-rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Giai đoạn 2 từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954: quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1, ta và địch giằng co nhau 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.
Giai đoạn 3 từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954: quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ-cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ "quyết chiến, quyết thắng" của Quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Đó là dấu ấn kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược; cũng là dấu mốc mở ra cục diện chính trị mới, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, trở thành căn cứ địa vững chắc, trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn, tiếp tục con đường cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc./.
Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Tư liệu
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao lá cờ “Quyết chiến-Quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng các đơn vị lập công. Điện Biên Phủ là một trong những trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ảnh: Tư liệu
Tài liệu tham khảo:- Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, tr.938-943, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.- Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt NamBài: Phương HàẢnh: Tư liệu